Quân phiệt độc lập Lưu_Nhân_Cung

Vào mùa thu năm 897, tức giận tước sự phản bội của Lưu Nhân Cung, Lý Khắc Dụng đã đích thân tiến công Lữ Long. Lý Khắc Dụng giao chiến với nữ tế của Lưu Nhân Cung là Đan Khả Cập (單可及), song bị tướng Lư Long là Dương Sư Khản (楊師侃) phục kích tại Mộc Qua giản (木瓜澗, nay thuộc Bảo Định); song thời tiết đã ngăn cản Lữ Long quân gây tổn hại lớn hơn cho Lý Khắc Dụng. Lý Khắc Dụng buộc phải từ bỏ nỗ lực tái chiếm Lữ Long. Sau đó, Lưu Nhân Cung đã thiết lập mối quan hệ với kình địch của Lý Khắc Dụng là Tuyên Vũ tiết độ sứ Chu Toàn Trung, và theo tiến cử của Chu Toàn Trung, Đường Chiêu Tông đã ban cho Lưu Nhân Chung chức vụ danh dự là "đồng bình chương sự". Tuy nhiên, Lưu Nhân Cung cũng viết một bức thư cho Lý Khắc Dụng nhằm tạ lỗi.[5]

Trong khi đó, Lưu Nhân Cung tranh chấp với Lô Ngạn Uy quyền kiểm soát giao thương muối tại hai quân. Năm 898, Lưu Nhân Cung phái con là Lưu Thủ Văn đi đánh trị sở của Nghĩa Xương là Thương châu (滄州). Lô Ngạn Uy không thể kháng cự nên đã bỏ thành và chạy đến Ngụy Bác (魏博, trị sở nay thuộc Hàm Đan, Hà Bắc), Lưu Thủ Văn chiếm được quân này. Lưu Nhân Cung cho Lưu Thủ Văn làm Nghĩa Xương lưu hậu, và sau đó thượng biểu thỉnh Đường Chiêu Tông bổ nhiệm Lưu Thủ Văn làm tiết độ sứ, song triều đình thoạt đầu đã từ chối. Đáp lại, Lưu Nhân Cung đã tuyên bố bất kính với sứ giả của triều đình:[5]

Tinh tiết ta đều tự có. Ta chỉ muốn có bản sắc (tức chính danh) từ Trường An. Tại sao ta mệt mỏi dâng tấu chương mà chưa thấy được nhận, hãy truyền lại lời của ta [cho triều đình]!

Sau khi đoạt được Nghĩa Xương, Lưu Nhân Cung được mô tả là tin tưởng vào sức mạnh quân sự của mình nên bắt đầu có tham vọng kiểm soát toàn bộ Hà Bắc. Vào mùa xuân năm 899, Lưu Nhân Cung phát động một cuộc tiến công lớn vào Ngụy Bác. Đến khi Lưu Nhân Cung chiếm được Bối châu (貝州, nay thuộc Hình Đài), ông tiến hành tàn sát toàn bộ cư dân trong thành và quăng các thi thể xuống sông. Đáp lại, tất cả các thành khác của Ngụy Bác sau đó đều tử thủ khi bị Lưu Nhân Cung tiến đánh. Lưu Nhân Cung đổi ý, quyết định tiến công trực tiếp vào trị sở của Ngụy Bác. Ngụy Bác tiết độ sứ La Thiệu Uy đã cầu viện Chu Toàn Trung và Lý Khắc Dụng. Khi các bộ tướng của Chu Toàn Trung là Lý Tư An (李思安) và Trương Tồn Kính (張存敬) tiến quân đến, Lưu Nhân Cung đã phái Lưu Thủ Văn và Đan Khả Cập đi nghênh chiến, song kết quả là thất bại và Đan Khả Cập bị giết còn Lưu Thủ Văn thì suýt mất mạng. Khi các tướng Tuyên Vũ là Cát Tùng Chu và Hạ Đức Luân (賀德倫) cũng kéo quân đến, cùng với Nguy Bác quân giao chiến với Lữ Long quân, Lữ Long quân lại chiến bại, các tướng Lữ Long là Tiết Đột Quyết (薛突厥) và Vương Cối Lang (王鄶郎) bị bắt. Lưu Nhân Cung và Lưu Thủ Văn buộc phải chạy về cố địa.[5]

Năm 900, Chu Toàn Trung phái Cát Tùng Chu thống soái quân của bốn quân (Tuyên Vũ, Ngụy Bác, Thái Ninh, Thiên Bình) tiến công Lưu Nhân Cung. Cát Tùng Chu nhanh chóng chiếm được Đức châu (德州, nay thuộc Đức Châu, Sơn Đông) bao vây Lưu Thủ Văn tại Thương châu. Khi Lưu Nhân Cung cầu viện Lý Khắc Dụng, Lý Khắc Dụng đã phái Chu Đức UyLý Tự Chiêu tiến công vùng Hình Minh (rơi vào tay Chu Toàn Trung từ trước đó) nhằm cố gắng phân tán quân Chu Toàn Trung. Khi Lưu Nhân Cung đích thân giao chiến với Cát Tùng Chu nhằm giải vây cho Thương châu, ông đã bị Cát Tùng Chu đánh bại. Tuy nhiên, thời tiết không ủng hộ đội quân bao vây, và khi Thành Đức tiết độ sứ Vương Dung đứng ra điều đình, Cát Tùng Chu đã rút lui.[8]

Vào mùa đông năm 900, sau khi buộc Vương Dung quy phục, Chu Toàn Trung phái Trương Tồn Kính dẫn quân cùng với Ngụy Bác quân tiến công Lưu Nhân Cung. Trương Tồn Kính nhanh chóng chiếm được Doanh châu và Mạc châu của Lữ Long và Cảnh châu của Nghi Xương, bắt thứ sử Lưu Nhân Bá (劉仁霸). Trương Tồn Kính chuẩn bị tiến công U châu, song do thời tiết không thuận nên Trương Tồn Kính quay sang tiến công Nghĩa Vũ và buộc quân này phải quy phục.[8]

Năm 901, Đường Chiêu Tông ban chức Thị trung (侍中) cho Lưu Nhân Cung.[8]

Năm 903, sau khi Đường Chiêu Tông hạ lệnh giết các hoạn quan, Lưu Nhân Cung không hành quyết giám quân Trương Cư Hàn mà giấu đi và giết một phạm nhân để thế mạng cho Trương Cư Hàn.[9]

Cũng vào năm 903, một thuộc quan của Lý Khắc Dụng là Vân châu đô tướng Vương Kính Huy (王敬暉) đã ám sát thứ sử Lưu Tái Lập (劉再立) và sau đầu hàng Lưu Nhân Cung. Lý Khắc Dụng đã phái Lý Tự Chiêu và Lý Tồn Thẩm đi đánh Vương Kính Huy, Lưu Nhân Cung phái quân đi cứu viện Vương Kính Huy, buộc Lý Tự Chiêu và Lý Tồn Thẩm rút lui một đoạn, Vương Kính Huy bỏ Vân châu và chạy sang lãnh địa của Lý Nhân Cung.[9]

Qua nhiều năm, Lưu Nhân Cung đã rất am hiểu về các hoạt động quân sự của người Khiết Đan, ông thường phái quân đi cướp bóc các vùng đất của Khiết Đan, cũng như đốt đồng cỏ để khiến ngựa Khiết Đan không có thức ăn. Vào mùa đông năm 903, khi tù trưởng Khiết Đan Da Luật A Bảo Cơ phái nữ tế Thuật Luật A Bát (述律阿缽) đi đánh Sơn Hải quan, con của Lưu Nhân Cung là Lưu Thủ Quang đã dùng mưu kế bắt được các chỉ huy quân Khiết Đan, đòi tiền chuộc.[9]

Năm 906, Chu Toàn Trung bao vây Thương châu, sau khi liên tiếp thất bại, Lưu Nhân Cung cảm thấy mình cần nhiều quân hơn nữa nên đã lệnh cho tất cả nam giới từ 15 đến 70 tuổi đều phải đi lính, xăm hình lên mặt họ. Lưu Nhân Cung cũng cầu viện Hà Đông. Thoạt đầu, Lý Khắc Dụng từ chối ứng cứu, song sau đó đã đổi ý và yêu cầu Lưu Nhân Cung hợp binh tiến công Chiêu Nghĩa (昭義, trị sở nay thuộc Trường Trị, Sơn Tây) để phân tán lực lượng của Chu Toàn Trung. Lưu Nhân Cung chấp thuận, liên quân Hà Đông và Lữ Long tiến công Chiêu Nghĩa, Chiêu Nghĩa tiết độ sứ Đinh Hội đầu hàng, buộc Chu Toàn Trung phải bỏ bao vây Thương châu và triệt thoái.[10]

Qua năm tháng, Lưu Nhân Cung trở nên bảo thủ hơn trong việc cai trị Lữ Long, ông còn trở nên ngạo mạn, hoang phí và hung bạo. Cho rằng căn cứ tại U châu không an toàn, ông đã cho xây một quán tại Đại An Sơn (大安山, nay thuộc Bắc Kinh), giống như một cung điện. Lưu Nhân Cung tuyển nhiều mỹ nữ và đưa họ đến Đại An Sơn. Ông cũng giữ lại các nhà giả kim thuật nhằm tìm phương cách trường sinh. Lưu Nhân Cung tích trữ của cải của người dân trong toàn quân, sản xuất tiền bằng đất sét, và nghiêm cấm mua lá chè từ Giang Nam, thay vào đó dùng lá cây trong quân để thay thế chè.[11]